Sản phẩm bài tiết của thận là gì thì chắc hẳn ai cũng biết câu trả lời chính xác. Nhưng bạn có biết quá trình bài tiết của nó, thành phần của nó là gì không? Hãy tìm câu trả lời và những kiến thức hữu ích trong bài viết dưới đây:
Sản phẩm bài tiết qua thận là gì?
Thận là cơ quan vô cùng quan trọng đối với cơ thể con người bởi nó đảm nhiệm rất nhiều chức năng khác nhau. Các chức năng này bao gồm:
- Lọc máu và chất thải
- chức năng nội tiết
- Chức năng bài tiết nước tiểu
- Điều chỉnh lượng máu
Trong đó chức năng chúng ta quan tâm nhất ở đây là bài tiết nước tiểu. Như vậy câu trả lời cho câu hỏi sản phẩm bài tiết của thận là nước tiểu là gì. Mục đích của sự bài tiết này là làm ổn định môi trường trong cơ thể, thanh lọc cơ thể, loại bỏ các chất dinh dưỡng hay chất độc hại, sản phẩm có hại sau quá trình chuyển hóa ra khỏi cơ thể. Ngoài ra, nó còn giúp đảm bảo các chất dinh dưỡng trong cơ thể luôn được thay mới.
Thành phần của nước tiểu sẽ bao gồm:
- Nước chiếm 93-95%.
- Chất khô chiếm 5%.
- Các chất vô cơ có các ion Ca+2, NH4+, Mg+2, Na+, Cl-, (PO4)3-, (SO4)2-… Nồng độ này thay đổi liên tục nên không có nhiều ý nghĩa lâm sàng. .
- Các chất hữu cơ bao gồm urê, creatinin, acid uric, acid amin… Và một số thành phần khác là men như men amylase, vitamin B1, PP, C; nội tiết tố sinh dục nam nữ, nội tiết tố, vitamin, nội tiết tố vỏ thượng thận.
Quá trình sinh lý bài tiết nước tiểu của thận
Sản phẩm bài tiết qua thận là nước tiểu, như chúng tôi đã lưu ý ở trên. Bạn có biết thận bài tiết nước tiểu như thế nào không? Quy trình như thế nào? Khi đó, quá trình tạo và bài tiết nước tiểu của thận theo sinh lý sẽ bao gồm 3 giai đoạn đó là lọc ở cầu thận, tái hấp thu ở ống thận và bài tiết một số chất cặn bã từ máu ra ống thận. quả thận. Kết quả của 3 giai đoạn trên là nước tiểu được tạo ra.
Giai đoạn lọc cầu thận
Trung bình một người bình thường mỗi phút sẽ có 1 lít máu được lọc qua thận. Như vậy trong vòng 1 giờ sẽ lọc được 60 lít máu và cho ra khoảng 7,5 lít dịch lọc. Có thể tính được cơ thể con người có 5 lít máu, sau 24 giờ sẽ đi qua thận khoảng 288 lần, ước tính cứ 5 phút sẽ đi qua một lần. Lọc máu diễn ra trong cầu thận. Cầu thận bao gồm một mạng lưới mao mạch song song được bao quanh bởi bao Bowman. Dịch từ máu vào Bowman được gọi là dịch lọc cầu thận. Nó sẽ đi qua 3 lớp lọc:
- Lớp tế bào nội mô mao mạch có nhiều lỗ nhỏ li ti có kích thước chỉ 160A0.
- Màng đáy dạng lỗ, kích thước 110A0.
- Tế bào biểu mô Bowman cũng có khe hở kích thước nhỏ hơn, 70A0.
Thành phần của dịch lọc cầu thận tương tự như huyết tương nhưng không có một số thành phần như tế bào máu, hàm lượng protein rất thấp, chỉ bằng khoảng 1/200 so với trong huyết tương. Cơ chế lọc ở đây sẽ phụ thuộc vào sự chênh lệch áp suất trong cầu thận và mao mạch Bowman. Cuối cùng tạo ra nước tiểu đầu tiên tại đây.
tái hấp thu ở ống thận
Các thành phần dinh dưỡng trong nước tiểu đầu còn khá nhiều nên sẽ tiếp tục được tái hấp thu ở ống thận. Trung bình mỗi ngày có 170-180 lít nước tiểu đầu được thải ra, nhưng sau khi tái hấp thu, thực tế chỉ có 1-2 lít nước tiểu được lọc ra ngoài. Từ cầu thận, nước tiểu đầu tiên sẽ đi vào ống thận, lần lượt qua ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa và ống góp. Nước tiểu cuối cùng sẽ được sản xuất. Các chất được tái hấp thu ở đây bao gồm natri, kali, đường, nước và một số thành phần khác như protein, axit amin, clorua, urê, bicacbonat…
giai đoạn bài tiết
Cuối cùng, sau khi nước tiểu được tái hấp thu, tất cả các thành phần cần thiết sẽ được cô đặc thành khoảng 1,5 lít nước. Nó được đổ vào bể thận, sau đó đi xuống niệu quản đến bàng quang trước khi được bài tiết.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự bài tiết của thận
Sự bài tiết của thận chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài cơ thể, cụ thể như sau:
- Ảnh hưởng đến lưu lượng máu và huyết áp: Huyết áp cơ thể giảm khiến áp suất trong các mao mạch cầu thận cũng giảm dẫn đến lượng nước tiểu bài tiết ra ngoài cũng giảm theo. Có thể thấy rõ bệnh nhân huyết áp thấp thường đi tiểu ít, thậm chí vô niệu. Khi lưu lượng máu qua thận tăng lên, lượng nước tiểu bài tiết cũng sẽ tăng lên do tốc độ lọc tăng lên.
- Bị ảnh hưởng bởi các thành phần của máu Ví dụ, nếu bạn uống nhiều nước, nước tiểu của bạn sẽ thường trong và loãng hơn. Nếu ăn nhiều NaCl sẽ làm tăng nồng độ nước tiểu. Vì vậy, nước tiểu sẽ bị ảnh hưởng bởi các thành phần hóa học trong máu.
- Chịu ảnh hưởng của các tuyến nội tiết: Thùy sau tuyến yên làm cho quá trình tái hấp thu nước ở ống thận tăng lên, nếu thùy sau tuyến yên bị suy giảm chức năng sẽ gây ra bệnh đái tháo đường. Với tuyến thượng thận, tủy thượng thận tiết ra adrenalin gây giãn động mạch vào và ra của thận, làm tăng áp suất ở các cầu thận và ảnh hưởng đến dòng nước tiểu ở đó. Vỏ thượng thận tiết ra các hormone giúp điều chỉnh sự tái hấp thu natri và kali.
- Thuốc lợi tiểu được chia làm 2 nhóm: Nhóm tác dụng lên tim làm tăng co bóp tim, tăng tuần hoàn máu và tăng huyết áp khiến thận bài tiết nước tiểu nhiều hơn. Nhóm tác dụng trên thận làm co mao mạch thận, tăng mức lọc cầu thận, đưa nước từ gian bào vào máu, tăng lưu lượng máu.
Các xét nghiệm dùng để đánh giá chức năng bài tiết của thận
Chắc hẳn chúng ta đã biết về chức năng bài tiết của Thận cũng như các sản phẩm bài tiết của Thận là gì. Các bệnh về thận sẽ ảnh hưởng đến chức năng của thận. Để đánh giá điều này phải thông qua các bài kiểm tra chuyên ngành. Theo đó, một số xét nghiệm được chỉ định trong trường hợp này:
Xét nghiệm nước tiểu để đánh giá chức năng bài tiết
Xét nghiệm trực tiếp nhất về chức năng bài tiết của thận là xét nghiệm nước tiểu. Theo đó, các chỉ số chúng ta cần chú ý là điện di nước tiểu. Protein niệu sinh lý là dưới 30 mg/24 giờ và microalbumin niệu là 30-300 mg/24 giờ. Khi con số này trong nước tiểu quá cao có nghĩa là thận đang bị tổn thương hoặc nồng độ immunoglobulin trong máu quá cao. Bằng cách phân loại protein trong nước tiểu khi điện di, bác sĩ sẽ chẩn đoán được đó là viêm cầu thận cấp hay protein niệu quản do ống thận bị tổn thương.
Xét nghiệm máu để đánh giá chức năng bài tiết
Thận có chức năng lọc máu để đào thải các chất cặn bã, cặn bã ra ngoài qua nước tiểu. Một số thành phần đặc trưng của máu như urê, creatinine.. sẽ được lọc qua cầu thận. Vì vậy, thông qua chỉ số của các thành phần này có thể đánh giá gián tiếp chức năng của thận:
- Xét nghiệm urê máu: Khi cơ thể hấp thụ đạm từ nguồn thức ăn bên ngoài và sau quá trình chuyển hóa cần thiết sẽ phân giải thành urê. Urê sẽ được lọc qua cầu thận và ra ngoài theo nước tiểu. Bình thường nitơ urê máu là 3,3 – 8,3 mmol/L. Mặc dù urê tương đối ít độc hơn ngay cả khi công thức máu cao, nhưng nó được dùng để đánh giá mức lọc cầu thận với độ chính xác cao. Khi urê trong máu cao hơn bình thường đồng nghĩa với chức năng thận hoạt động kém hơn.
- Xét nghiệm creatinine máu: Creatinine là sản phẩm phân hủy của Creatin trong cơ bắp. Thận có vai trò giữ cho chỉ số creatinine trong máu ở một chỉ số ổn định, nó được đào thải qua thận. Do đó, creatinine máu có thể được sử dụng để đánh giá mức lọc cầu thận. Nếu hoạt động của các nephron giảm 50% thì chỉ số này chỉ tăng nhẹ, nhưng giảm trên 50% thì sẽ có mức tăng mạnh. Creatinine máu bình thường ở phụ nữ là 44-97 umol/l hoặc 0,5-1,1 mg/dl, trong khi ở nam giới là 53-106 umol/l hoặc 0,6-1,2 mg/dl (đơn vị SI). Tuy nhiên, nó cũng bị ảnh hưởng bởi tuổi tác, cân nặng, giới tính, v.v.
Xét nghiệm hình ảnh để đánh giá chức năng bài tiết
Đối với phương pháp chẩn đoán hình ảnh dùng để đánh giá chức năng bài tiết của thận, chúng ta có thể sử dụng phương pháp chụp thận có tiêm thuốc qua đường tĩnh mạch. Nhưng nó chỉ được dùng phổ biến trong mổ sỏi thận (uống trước mổ). Khi đó, sỏi gây tắc nghẽn và ứ đọng nước ở niệu quản, làm tăng áp lực phía sau thận và ức chế chức năng bài tiết của bộ phận này. Ngoài ra, chụp thận còn được dùng để phát hiện bệnh lao, u thận giai đoạn cuối, lúc này chức năng bài tiết sẽ bị suy giảm một phần hoặc toàn bộ.
Các phương pháp đánh giá khác
Ngoài các phương pháp cụ thể trên còn có một số phương pháp đánh giá khác cũng cho kết quả có giá trị chẩn đoán và định hướng điều trị cao như:
- Test gây đa niệu: Cách thực hiện: Người bệnh sẽ uống một lượng nước nhất định, khoảng 600ml trong vòng 4 giờ. Ở người bình thường, lượng nước đưa vào cơ thể luôn nhỏ hơn lượng nước thải ra ngoài qua nước tiểu, tỷ lệ này sẽ thay đổi tùy theo thời điểm. Cách này để phát hiện suy thận sớm. Khi lượng nước tiểu bài tiết ra ngoài ít hơn lượng nước đưa vào, tỷ trọng không đổi hoặc ít thay đổi chứng tỏ chức năng thận bị suy giảm.
- Nghiệm pháp pha loãng: Cách thực hiện: Người bệnh cần nhịn ăn và tiến hành đặt ống thông bàng quang. Họ sẽ được truyền 1,5 lít nước trong vòng 30 phút. Sau đó, cứ 30 phút sẽ lấy nước tiểu một lần và liên tục trong 4 giờ. Kết quả bình thường nếu tổng lượng nước tiểu sau 4 giờ lớn hơn hoặc bằng lượng nước đưa vào và tỷ trọng thấp nhất < 1,002. Khi nước tiểu nhỏ hơn nước uống và tỷ trọng thấp nhất > 1,002, chức năng thận suy giảm.
- Và một số phương pháp khác như phương pháp cô đặc, phương pháp PSP, phương pháp xanh Methylene…
Bệnh ảnh hưởng đến sự bài tiết của thận
Một số bệnh lý ở thận ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng bài tiết của nó đó là:
- Viêm cầu thận cấp: Bệnh này thường do rối loạn đáp ứng miễn dịch gây ra, thông thường các triệu chứng sẽ xuất hiện sau 1-3 tuần kể từ khi bị nhiễm trùng. Người ta giải thích rằng đó là do phản ứng giữa kháng nguyên và kháng thể tạo phức hợp không tan lắng đọng tại màng đáy của cầu thận khiến tính thấm chọn lọc tại đây thay đổi dẫn đến các thành phần như protein, hồng cầu bị biến dạng. , các tế bào bạch cầu không thể đi qua đây sẽ bị thải ra ngoài qua nước tiểu.
- Viêm cầu thận mãn tính: Tình trạng viêm mãn tính này cũng giống như viêm cấp tính. Nhưng nguyên nhân là do sự xâm lấn màng lọc của các tổ chức xơ làm giảm chức năng lọc, gây rối loạn điện giải và ứ đọng các sản phẩm chuyển hóa.
- Hội chứng thận hư: Bệnh này được đặc trưng bởi protein niệu, thường gặp ở trẻ em hoặc thanh niên. Cơ chế là do giảm hoặc mất điện tích âm của màng cầu thận dẫn đến albumin dễ được giải phóng.
Sản phẩm bài tiết của thận là gì, chúng tôi đã cung cấp kiến thức một cách rất chi tiết trong bài viết trên. Hi vọng những điều trên hữu ích với bạn đọc.